Những năm xa xôi, mỗi khi nghe đến Sài Gòn, tôi mường tượng về một đô thị phồn hoa, phố sá tấp nập người và xe cộ. Nơi kẻ giàu người nghèo lúc nào cũng hối hả, không biết đi đâu về đâu.
Xóm tôi hồi trước thỉnh thoảng lại nghe ai đó trốn nhà lên Sài Gòn. Có người đi làm thuê, ở đợ, phụ quán ăn… lâu lắm mới về thăm. Cách nhà tôi một con mương, cũng có bốn cô gái trẻ bỏ đi không chút tin tức, chỉ biết là đi mất. Vài tháng sau, một cô biên thơ về, cha mẹ mừng rơi nước mắt. Nghe đâu cô lên Sài Gòn phụ việc nhà, lương mỗi tháng chừng ba bốn trăm ngàn. Ấy vậy mà cậu mợ hãnh diện lắm, vừa giận vừa thương. Hồi còn ở nhà, thấy mấy đứa con sớm hôm cặm cụi kiếm từng cắc bạc mua sách vở, cậu mợ xót xa lắm. Nay con gái đã biết tự lập, kiếm được đồng ra đồng vô, âu cũng đáng mừng.
Bọn con nít thấy trong xóm có ai đi Sài Gòn về, lòng háo hức, chộn rộn như đón người thân. Thế nào cũng được cho một ổ bánh mì nguội ngắt ngồi ăn ngon lành. Rồi còn được nghe kể đủ thứ: nào xe hơi mới cáu cạnh, nào siêu thị rộng thênh thang máy lạnh mát rượi, nào nhà cao tầng hiện đại với thang máy đi khỏi mỏi chân. Đôi mắt chúng lóng lánh, nghĩ cả đời chắc không bao giờ có cơ hội đặt chân tới. Tôi chỉ ghét mấy người đi xa chẳng bao lâu mà đã học đòi nói giọng đơn đớt: “Sài Gòn” mà cứ nói Sì Gòn, “Bến Tre” thì một hai Bến Te… Nghe làm như sang lắm không bằng?
Thời gian cứ vậy mà trôi. Hết năm 12, tôi cũng như bao đứa dân quê khác khăn gói lên Sài Gòn chen chúc một chỗ đứng. Tôi còn nhớ mãi cái ngày ấy. Tôi mặc áo thun xanh, tay quảy tay mang ba bốn cái ba lô đựng toàn quần áo, sách vở, với mấy thứ lặt vặt. Trong đó, đặc biệt có quyển lưu bút từ hồi cấp II, cùng cái đồng hồ cô bạn lớp Hóa tặng dịp sinh nhật. Tôi lên xe buýt ghé ngay ngã sáu Cộng Hòa, may mắn được anh rể đón và phụ vác đồ vô. Tôi ở nhờ nhà bà con vài ngày rồi dọn qua thuê phòng gần ngã tư Bảy Hiền.
Trong lúc chờ kết quả thi đại học, tôi kiếm việc gì đó làm, chủ yếu học hỏi kinh nghiệm và tập làm quen với cuộc sống mới. Công việc đầu tiên, tôi làm được hai tuần, phục vụ cho nhà hàng khu phố Tây. Sau đó, nhờ vốn tiếng Anh tạm bợ, tôi xin được việc tiếp tân cho một công ty địa ốc trên đường Điện Biên Phủ. Cũng chỉ làm được hai tuần rồi xin nghỉ vì nhận được giấy báo trúng tuyển. Tôi về quê chuẩn bị thủ tục nhập học.
Lúc tôi về, mẹ là người hạnh phúc nhất. Gặp bà con lối xóm, ai cũng chia vui — phen này chắc nhà tôi ăn mừng lớn lắm. Nhưng thật lòng tôi chẳng có chút niềm tin vào những ngày sắp tới. Mười mấy năm đèn sách, tôi đã thấm mệt với chương trình giáo dục nặng nề, xa rời thực tế. Tôi tự cảm thấy rởm đời quá nên xin thôi, lặng lẽ quay trở lên Sài Gòn. Trong đầu, vẫn còn nhan nhản ý nghĩ về chuyện thi cử: đi thi kẻ đậu người rớt, không lẽ lúc đậu thì phải kèn trống rền vang, còn rớt thì giấu nhẹm không ai hay?
Tôi làm thủ tục nhập học vào một trường đại học có tiếng ở Phú Nhuận. Buổi đầu lạ lẫm, mọi thứ đều thay đổi, từ cách xưng hô ngôi thứ. Các anh chị khóa trước tổ chức buổi lễ chào đón tân sinh viên thật rình rang. Thiết nghĩ ai hòa mình vào đó ắt hẳn cũng ấm lòng. Riêng tôi cảm thấy lạc lõng giữa cái thế giới mênh mông mà nơi đó, mỗi cá thể là một người thợ xây dựng tương lai. Tôi choáng ngợp với những khẩu hiệu rỗng tuếch, thu mình quan sát và chiêm nghiệm.
Ngành học tôi chọn lúc đăng ký là kinh tế đối ngoại, khoa tiếng Nhật — với lý do đơn giản là học thêm một thứ tiếng. Thầy dạy tiếng Nhật người miền Bắc, còn khá trẻ. Tôi cũng hy vọng giáo viên trẻ sẽ dễ gần với sinh viên. Nhưng thực tế thật đáng buồn, chỉ sau buổi học đầu tiên, tôi lật đật nộp đơn xin chuyển sang khoa tiếng Anh, không phải vì môn tiếng Nhật khó nuốt — ngày đầu thì có học được cái gì? Chỉ vì tôi không thể nào cho phép mình ngô nghê như một chàng khờ, thụ động chờ người khác ban kiến thức, truyền đạt kinh nghiệm như thế.
Hết học kỳ một tôi đã không thể tiếp tục chống chọi. Lớp nhỏ thì đông nghẹt, giảng đường lớn cũng chật cứng hàng trăm sinh viên, ngồi khúm núm trong bầu không khí oi bức. Còn giảng viên thì tay cầm micro thao thao bất tuyệt như đang truyền đạo trên bục giảng, biến mất ngay sau tiếng chuông báo hết giờ. Người dạy nào phải cội nguồn tri thức, người học nào phải gà công nghiệp, sao việc ai người nấy làm? Đời sinh viên chỉ có vậy? Suốt ngần ấy năm miệt mài chỉ đổi được có bấy nhiêu?
Tôi mệt nhoài nằm dài trên giường cốt tìm ra một lối thoát. Bên ngoài, tiếng ồn ào đặc trưng của thành thị không lúc nào ngưng. Nhìn qua khung cửa sổ đứng rũ thèm một cơn gió, tôi mơ màng nghĩ về giấy báo nhập học trường hàng không. Nếu mình kiên trì nhẫn nại, sau này biết đâu có cơ hội đi đây đó trên những chuyến bay. Từ trên không trung nhìn xuống đất, vạn vật thu nhỏ, và mình cũng tan biến. Như vậy có lẽ thú vị hơn ngày ngày phải thắt cà vạt tới sở làm.
Sau chút giây phút lãng mạn, tôi tỉnh dậy và nhận ra mình chỉ thật sự yêu thích ngành học về máy tính. Thế là tôi quyết tâm theo đuổi tới cùng, giống như ngày xưa lựa chọn học ngoại ngữ, trước hết vì niềm đam mê. Tôi may mắn nhận được sự ủng hộ từ một người bạn đặc biệt, và được tài trợ trong suốt khóa học. Từ đó, tôi không còn chú ý gì khác ngoài việc trau dồi ở trường, đến nỗi dần mất hết những người bạn thân trước đây. Tôi cũng ít về thăm nhà, thăm quê hương có cây cầu khỉ.
Mỗi ngày chạy xe đến lớp, qua bao nhiêu con đường, gặp bao nhiêu người cũng không khỏa lấp được sự trống trải trong tâm hồn, mà chỉ làm tôi cố quên đi cuộc sống khô cằn. Thì ra mình cũng đang bon chen giữa thành phố chật chội này. Tôi trở nên vô cảm, thờ ơ mỗi khi ra đường. Mọi người cũng thế.
Cho đến một ngày, tôi quen được những người bạn mới. Tôi thay đổi, hòa hợp với những gì mình đang có. Hằng ngày, vẫn đi trên con đường ấy, nhưng tôi thấy có lá me bay, có tia nắng vàng lọt qua vòm lá. Nhớ đoạn đường về nhà thật gần, mà cứ chạy ngoằn nghoèo qua mấy con hẻm sâu. Nhớ quán cóc ven đường ngồi không biết chán, nhớ trung tâm mua sắm sang trọng đi lòng vòng chỉ để ngó. Và nhớ một người.
Sài Gòn của tôi là thế đó, gắn liền suốt cả quãng đường đời. Bây giờ ngồi nghĩ lại, bồi hồi những ngày vui, ngậm ngùi những ngày buồn. Từ bao giờ, Sài Gòn đã không còn thuộc về tôi nữa, chắc có lẽ là mãi mãi?