Về quê

Hồi còn đi học, ngoài mỗi dịp nghỉ hè, chắc vui nhất là mấy lần được bạn bè rủ về quê chơi. Mà thực tế nơi tôi sinh ra và lớn lên vốn đã quê lắm rồi. Nhưng càng đi sâu vào những vùng xa xôi hẻo lánh, tôi càng thích thú.

Nếu nhớ không lầm, lần đó độ chừng năm lớp 6. Cô bạn học chung từ cấp I mời cả lớp về quê ngoại chơi. Tôi vô cùng sung sướng! Không hiểu sao mỗi khi nghe hai từ quê ngoại, tôi cảm giác có gì đó thân thuộc lạ lùng.

Hôm đó, sau năm tiết buổi sáng, cả bọn tập trung đông đủ tại sân trường. Chẳng biết có phải do lời mời ngẫu hứng, hay sợ không được đi, tôi quên xin phép ba mẹ. Thôi kệ, “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò,” cứ đi quậy trước rồi tính.

Lớp tôi sĩ số tầm bốn mươi, trừ mấy đứa ngoan ngoãn không dám đi chơi xa, đa số đều ham vui. Trong lúc chờ tụi con gái đi chợ mua đồ nấu, bọn con trai rôm rã không biết chán. Còn tôi mệt mỏi đứng lừ đừ một chỗ.

Sân trường giờ tan học vắng hoe, ai về nhà nấy. Cả lá cờ cũng rũ rượi giấc ngủ trưa. Mùa thu, mấy cây me tây rụng lá, gió thổi rơi đầy một góc sân. Ẩn trong những cánh hoa li ti, vài con sâu đo cuốn mình kết kén. Giờ lên lớp sân trường ít ai qua lại, chỉ còn lưa thưa vài con chim nhảy nhót tìm mồi. Còn nhớ mấy tiết văn tẻ nhạt, tôi ngồi lim dim đưa mắt ra cửa sổ theo dõi đôi chim sẻ đang ríu rít. Thỉnh thoảng nhìn bọn chúng âu yếm, tôi cười mỉm…

Thoáng chốc đã nghe tiếng cười nói ồn ào ngoài cổng. Hôm nay cớ sao tụi con gái nhanh nhảu thế? Hay chợ cũng dọn rồi? Mà chắc không, do náo nức đi chơi đây mà. Rồi rộn rộn ràng ràng, từng tốp bốn năm chiếc xe chạy nối đuôi chủ xị.

Bình thường tôi hay bực dọc chiếc xe ba tôi ưa xiết cứng ngắt, đạp rất mỏi chân. Bữa nay tôi quên bẵng, chỉ thấy nôn nao dù bụng đang đói meo. Được một đoạn, tôi vượt lên nhóm này trêu một lát, rồi thả chân từ từ chờ nhóm sau chạy tới mà nghe ngóng. Có khi cố ý, tôi ghì lên đồ gác chân sau của thằng bạn cho nó kéo đi. Biết tôi hay phá, nó để yên không thèm nói. Đến khi lên dốc không nổi, nó bực mình quay lại quát. Tôi bỏ chân, ngoảnh mặt sang một bên, miệng huýt sáo tỏ vẻ không hay biết mô tê gì cả.

Trên cao mặt trời rọi thẳng đứng, ánh nắng chói chang làm mồ hôi nhễ nhại trên má, bụng lại thêm đói. Đường càng xa khung cảnh càng lạ, nhà cửa thưa thớt dần. Đi thêm một quãng cỡ từ nhà đến trường là tới ngã quẹo, chạy mon men theo con đường nhỏ hai bên ruộng bắp xanh rì. Một cơn gió thoảng mang hơi nước mát lạnh chạy luồn qua mặt. Tôi lâng lâng hít sâu hơi thở của đất sau cơn mưa vội.

Tốp đầu tiên dừng lại, cả bọn reo hò tưởng đã tới nơi. Rồi ai nấy thất thểu, nghe đâu còn phải cuốc bộ cả cây số. Tôi lại khoan khoái. Hiếm khi mới có dịp đông đủ thế này, mà đường quê thì mát rượi, có gì đâu. Thật ra, tôi đang nóng lòng chờ xem cảnh mấy đứa dân chợ đi cầu khỉ. Nghĩ cũng lạ, cây cầu dừa to đùng bắc ngang cái vũng nhỏ, đến xe máy còn chạy qua được. Vậy mà mấy cô tiểu thư miệt vườn lại không dám đi, năn nỉ cách gì cũng không chịu. Thấy nấn ná mãi cũng chán, quê thì cũng đã quê rồi, các nàng đành lủi thủi xách dép bò qua từ từ, trông vừa tội vừa buồn cười.

Đến nơi, từng nhóm vào nhà chào người lớn. Chưa kịp hỏi thăm dăm ba câu, cậu dì biết ý lật đật bỏ sang nhà hàng xóm chơi, để mặc cho tụi học trò tha hồ quậy. Lúc này, bọn con gái trổ tài nữ công gia chánh, tranh nhau bắc nước nấu cơm. Ai cũng tỏ vẻ thạo việc. Trong nhà, xoong chảo khua nhau cóc cách, kèm theo mấy tiếng í ới hỏi đồ. Ngoài vườn, lũ con trai tha hồ lục lọi kiếm trái cây ăn lót dạ.

Nhà ngoại có vườn mận hồng đào trĩu quả, trái nào trái nấy to mọng, da đỏ sần, cắn vô nghe ngọt lịm. Vài đứa con gái lười làm bếp, nghe rù rì nên đi theo hái mận. Rồi nguyên đám rủ nhau đi bơi xuồng đốn dừa nước. Trò này ly kỳ nhất. Chiếc xuồng nhỏ xíu mà mạnh ai nấy giành một chỗ. Mới nãy còn không dám đi cầu khỉ, giờ gan lì cãi nhau chí chóe, đòi đi cho bằng được. Tôi chậm chân nên đành đứng ngó.

Chiếc xuồng ba lá rời bến, mỗi đứa một khúc cây làm dằm, khiến nó chòng chành rồi quay vòng, ồn ào cả mé sông. Tôi ghét quá bỏ vô nhà chơi cho êm chuyện. Lát sau bỗng trời mưa to, thế là cả bọn ướt sũng, ghe cũng khẩm nặng, xém chìm. Đứa nào đứa nấy xanh mặt vội vàng bơi vô, lên được tới bờ mừng như sống lại.

Bấy giờ, món rau câu cũng đã chuẩn bị xong, mỗi đứa một chén. Nhưng chỉ ăn được một chút, rồi lẳng lặng nhìn nhau cười. Chưa bao giờ món khoái khẩu thời trung học lại dở tệ như thế. Coi như ăn nhà chòi, lần sau hy vọng khá hơn.

Mưa tạnh, mọi người bắt đầu ra về, kết thúc một bữa đi chơi nhớ đời.

Advertisement

Năm mười

Mấy đêm nay, nhìn ánh trăng loáng thoáng qua cửa sổ, làm tôi nhớ mấy đứa bạn chôn nhau cắt rốn. Lớn lên, mỗi đứa một nơi, nhưng kỷ niệm về ngày tháng cũ vẫn vẹn nguyên như lúc nào.

Hồi đó, không chỉ những đêm trăng sáng bọn tôi mới tụ tập chơi chung với nhau, mà hầu như ngày nào cũng náo nhiệt suốt cả buổi tối. Dưới ánh trăng, những khuôn mặt ngơ ngác tụm lại, những trò chơi con nít đều đặn diễn ra. Từ chiều, tầm bốn giờ rưỡi, có nhà đã dọn mâm cơm. Nhà tôi thường ăn trễ hơn một chút, khoảng năm giờ. Mùa mưa càng phải ăn sớm để tránh lũ mối lượn lờ tranh ánh đèn dầu.

Đúng 6 giờ 45, phim hoạt hình đài Vũng Tàu kết thúc, cũng là lúc bọn tôi bắt đầu hợp lại từ nhiều phía. Buổi tối thường thích hợp mấy trò tập thể như năm mười, ăn trái cây, bắt mò, thi hát liên khúc, đánh bài (uống nước, quỳ gối, quẹt lọ). Địa điểm ăn chơi là nhà cậu Hai, cách nhà tôi một con mương. Nhà cậu đông con nhất xóm, cậu mợ lại dễ tánh, hiếm khi la mắng lũ quậy bọn tôi. Hôm nào ồn quá, mợ chỉ láp dáp vài tiếng rồi thôi.

Trò đầu tiên phải kể đến là chơi năm mười. Cả bọn thùn trắng đen, hai đứa ở: một đứa giữ cột một đứa đi tìm, số còn lại tha hồ đi trốn. Năm, mười, mười lăm, hai mươi, hăm lăm… hai đứa úp mặt vô cột cùng đếm, đôi khi ăn gian hí mắt liếc nhìn. Cả đám phút chốc tản đi tìm chỗ núp, với điều kiện không được ra khỏi phạm vi ngôi nhà.

Nhà cậu Hai vách gỗ, không lớn cũng không nhỏ, có nhiều phòng. Bao nhiêu chỗ trống và tối nhất được tận dụng triệt để. Có đứa leo lên cột kèo, ngồi đung đưa như khỉ dòm nhà. Đứa nào nhỏ con chui tọt vô ngăn tủ, nếu lỡ bị phát hiện thì cố kéo chặt cửa tủ. Đứa nào còm nhom khoái ép sát sau cánh cửa, chân đứng nhón. Nhưng vui nhất là bốn năm đứa tranh nhau cái mền cũ kỹ, tay ghì chặt rìa mền gở cách nào cũng không ra. Bên ngoài, ánh đèn le lói bỗng sáng rực, không gian tĩnh mịch cũng dường như chựng lại. Bên trong, mấy cặp mắt mèo chực hờ dõi theo nhất cử nhất động. Chỉ cần đứa đi tìm mò vào trong, hai thằng nhanh chân nhảy ra lấy mền trùm kín, cả bọn chạy ào ra như ong vỡ tổ, mặc cho đứa giữ cột ậm ực không làm gì được.

Trò chơi tiếp tục hai ba bận đã hơn tám giờ. Xa xa nghe văng vẳng tiếng mẹ kêu về ngủ sớm, sáng mai đi học…

Những lá thư không gửi: thư thứ hai

[Notes: an English translation of this post can be found here.]

Ba của con,

Bằng cách này hay cách khác, con biết rồi ba sẽ đọc được lá thư này. Con phải bắt đầu từ đâu? Tự hào về người cha đáng kính một đời hi sinh để lo cho con cái? Hay kể lể những tháng ngày buồn bã nhất con đã trải qua suốt thời thơ ấu? Xã hội này và bạn bè con sẽ ngoảnh mặt quay lưng, hay bắt đầu nhìn con bằng ánh mắt khác? Thôi thì dù sao cũng một lần, con viết cho ba ít dòng. Để mỗi khi đêm về, những vết thương lòng không còn giày vò con được nữa.

Con vẫn biết sự khác biệt giữa hai thế hệ đã tạo một khoảng cách mà cha con mình chẳng bao giờ hiểu nhau được. Ba giữ vai trò trụ cột gia đình, rất gia trưởng, luôn muốn người khác phục tùng theo ý ba. Còn con, như cánh chim lạc đàn. Ai cũng chỉ một lần được sống, nên con muốn tự đứng vững trên đôi chân mình. Một ngày nào đó, có thể con vấp ngã, nhưng con sẽ gắng đứng lên. Có nhiều lúc con tự hỏi về sự tồn tại của mình. Và cũng bao lần con mất niềm tin vào giá trị gia đình.

Lúc nhỏ, con rất tự hào về ba — một người chính trực và luôn sống mẫu mực; ba biết làm rất nhiều việc, dù trong hoàn cảnh khó khăn nào ba cũng vượt qua; ba hiếm khi mất uy tín với ai và cũng không khi nào chè chén bê bếch. Nhưng ba có biết, mọi người đều xa lánh ba, không ai dám gần ba lâu? Cả những chú bác thân nhất cũng ngại tiếp xúc với ba. Ba hà khắc với tất cả mọi người. Ai làm sai điều gì, ba giữ trong lòng và khó tha thứ. Các anh chị con đều sợ mỗi khi nhắc về ba. Sao mình không thể sống chan hòa với nhau?

Nhớ hồi bé xíu, cả nhà ngoại đều ghét ba, họ cũng ghét luôn cả con. Nhưng con vẫn thương ba, đơn giản vì ba là ba của con. Thậm chí người ta còn cắt ngang câu chuyện khi con vô tình chạy tới. Họ sợ con về học lại, rồi ba hạch sách mẹ. Con biết được nên chỉ im lặng, những gì nghe được sẽ như gió cuốn mây trôi. Lứa tuổi hồn nhiên mà con luôn mặc cảm về hoàn cảnh gia đình mình.

Con không mơ nhà cao cửa rộng, con chỉ ước những bữa cơm gia đình đủ mặt ba thành viên. Dù chỉ một tô canh rau đạm bạc với nồi tép kho, con cũng vui lòng. Nhưng con không dám ngồi chung bàn với ba, cha con mình không hợp khẩu nhau. Chỉ có mẹ cả đời sống nhẫn nhịn bên ba, mà lúc mẹ bệnh ba cũng không quan tâm. Có thời gian dài, con luôn bị ám ảnh, ngày nào nhà mình không có tiếng cãi vả chắc ăn cơm không ngon. Có bao giờ ba thấu hiểu cảm nhận của con?

Lên lớp ba lớp bốn, ba dạy con học. Ba mua cho con tấm bảng lớn, mỗi ngày ba dạy con đổi đơn vị. Tuổi còn mê chơi, con cứ làm sai hoài. Mỗi lần như vậy, ba đánh con thẳng tay. Sợ quá, con làm theo quán tính chứ thật ra trong đầu không biết gì. Ba đánh con nhiều đến nỗi con trở nên chai lì với cây roi. So với những đứa khác, con học rất giỏi, cũng không làm ba hài lòng. Ba thường nói: “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.” Giá như con là đứa mê chơi lêu lổng, không lo học hành, suốt ngày phá làng phá xóm… thì ba có nhận con không?

Mỗi lần đi học, con phải đến trước mặt ba để thưa gởi: “Thưa ba, con đi học!” Có khi con phải lặp đi lặp lại mấy lần để ba nghe thấy. Rồi ba mới cho con vài đồng tiền lẻ để ăn quà. Dần dà, con thấy việc giữ lễ phép như sự ép buộc, không xuất phát từ tấm lòng nữa nên con cũng không màng.

Nhớ hồi lớp năm, con được nhà trường cho đi du lịch thành phố. Đó là lần đầu tiên con đi chơi xa một mình, ba cho con được mười hai ngàn. Con reo mừng, tưởng là nhiều lắm. Nhưng ba biết không, số tiền đó ít ỏi đến nỗi con không mua được một món quà, nên con giữ nguyên mang về. Nhìn mấy bạn đầy đủ, thấy gì cũng mua, con mủi lòng mà nào dám trách.

Một lần, cô tổng phụ trách chọn con tham dự họp mặt người con hiếu thảo. Nghe bạn bè cùng trang lứa ca ngợi về người cha, con thấy hổ thẹn trong lòng. Con biết phải khoe ba của mình thế nào đây? Con kể về mẹ…

Con còn nhớ những hôm thật khuya, ba thức kêu con dậy đi lượm xoài. Cây xoài ngoài vườn rất to và say trái. Mấy trái chín thường rụng ban đêm, mà con vốn sợ ma đâu dám đi một mình. Thấy con ham, ba cũng ráng dẫn con đi. Có hôm lượm được ba bốn trái, con vui mừng hơn bắt được vàng. Rồi hai cha con về nhà ngủ tiếp, một lát sau ba đi làm, rồi sáng con đi học.

Trong giờ sinh học, bạn con mang theo cây sầu riêng làm mẫu vật. Sau tiết học, con xin về nhà trồng. Hơn chục năm rồi mà cây chưa có trái. Ba nói, mỗi lần ra thăm vườn, nhìn thấy cây sầu riêng ba nhớ những ngày con quấn quýt đeo chân ba. Vậy mà hồi đó, ba cố trồng cây thanh long làm chết cây điệp con trồng trước nhà. Con buồn mấy ngày liền.

Ba còn nhớ những lần cha con mình đi tắm sông? Ba cho con một cái bấp-xi, thả con ra giữa dòng, rồi bơi nhanh vô bờ. Giữa mênh mông sóng nước, con sợ lắm, chỉ nhìn về phía ba, cố bơi vào. Giờ nghĩ lại còn thấy ớn lạnh, nhưng hồi đó con rất thích. Con biết ba luôn dõi theo con. Cuộc đời như một dòng xoáy, nó có thể nhấn chìm mình bất cứ lúc nào. Nhưng có ba bên cạnh, con không còn sợ gì nữa.

Có hôm trời mưa tầm tã, sấm chớp ầm ầm, con sợ quá chạy đến võng nằm trên mình ba. Ba kể con nghe những ngày ba đi lính. Mẹ ngồi may cũng tiếp chuyện. Mẹ kể, thuở thiếu thời ba rất đào hoa, làm con cũng thấy hãnh diện. Rồi ba kể con nghe về đồng đội mình, về anh lính Mỹ. Từ bao giờ con đã nuôi ước mơ về vùng đất tự do. Có phải con sinh ra để thực hiện hoài bão của ba?

“Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”

Con lớn dần theo tiếng mẹ ầu ơ. Năm học hết cấp II, con xin sang tỉnh học. Những ngày đầu sống tự lập, gặp muôn vàn khó khăn. Mỗi lần về nhà xin tiền là mỗi lần con khóc cạn nước mắt. Ba tính toán với con từng ngày. Con thấy mình vô dụng quá, từng tuổi đó mà vẫn phải sống phụ thuộc vào gia đình. Con muốn buông lơi tất cả. Nhưng rồi con cố bước tới, dẫu phía trước có biết bao điều con không lường được…

Giờ này, mọi chuyện đã qua. Có cay đắng mới biết quý trọng lúc ngọt bùi. Và câu chuyện về cha con mình vẫn chưa kết thúc, phải không ba?

Con của ba.

Sài Gòn

Những năm xa xôi, mỗi khi nghe đến Sài Gòn, tôi mường tượng về một đô thị phồn hoa, phố sá tấp nập người và xe cộ. Nơi kẻ giàu người nghèo lúc nào cũng hối hả, không biết đi đâu về đâu.

Xóm tôi hồi trước thỉnh thoảng lại nghe ai đó trốn nhà lên Sài Gòn. Có người đi làm thuê, ở đợ, phụ quán ăn… lâu lắm mới về thăm. Cách nhà tôi một con mương, cũng có bốn cô gái trẻ bỏ đi không chút tin tức, chỉ biết là đi mất. Vài tháng sau, một cô biên thơ về, cha mẹ mừng rơi nước mắt. Nghe đâu cô lên Sài Gòn phụ việc nhà, lương mỗi tháng chừng ba bốn trăm ngàn. Ấy vậy mà cậu mợ hãnh diện lắm, vừa giận vừa thương. Hồi còn ở nhà, thấy mấy đứa con sớm hôm cặm cụi kiếm từng cắc bạc mua sách vở, cậu mợ xót xa lắm. Nay con gái đã biết tự lập, kiếm được đồng ra đồng vô, âu cũng đáng mừng.

Bọn con nít thấy trong xóm có ai đi Sài Gòn về, lòng háo hức, chộn rộn như đón người thân. Thế nào cũng được cho một ổ bánh mì nguội ngắt ngồi ăn ngon lành. Rồi còn được nghe kể đủ thứ: nào xe hơi mới cáu cạnh, nào siêu thị rộng thênh thang máy lạnh mát rượi, nào nhà cao tầng hiện đại với thang máy đi khỏi mỏi chân. Đôi mắt chúng lóng lánh, nghĩ cả đời chắc không bao giờ có cơ hội đặt chân tới. Tôi chỉ ghét mấy người đi xa chẳng bao lâu mà đã học đòi nói giọng đơn đớt: “Sài Gòn” mà cứ nói Sì Gòn, “Bến Tre” thì một hai Bến Te… Nghe làm như sang lắm không bằng?

Thời gian cứ vậy mà trôi. Hết năm 12, tôi cũng như bao đứa dân quê khác khăn gói lên Sài Gòn chen chúc một chỗ đứng. Tôi còn nhớ mãi cái ngày ấy. Tôi mặc áo thun xanh, tay quảy tay mang ba bốn cái ba lô đựng toàn quần áo, sách vở, với mấy thứ lặt vặt. Trong đó, đặc biệt có quyển lưu bút từ hồi cấp II, cùng cái đồng hồ cô bạn lớp Hóa tặng dịp sinh nhật. Tôi lên xe buýt ghé ngay ngã sáu Cộng Hòa, may mắn được anh rể đón và phụ vác đồ vô. Tôi ở nhờ nhà bà con vài ngày rồi dọn qua thuê phòng gần ngã tư Bảy Hiền.

Trong lúc chờ kết quả thi đại học, tôi kiếm việc gì đó làm, chủ yếu học hỏi kinh nghiệm và tập làm quen với cuộc sống mới. Công việc đầu tiên, tôi làm được hai tuần, phục vụ cho nhà hàng khu phố Tây. Sau đó, nhờ vốn tiếng Anh tạm bợ, tôi xin được việc tiếp tân cho một công ty địa ốc trên đường Điện Biên Phủ. Cũng chỉ làm được hai tuần rồi xin nghỉ vì nhận được giấy báo trúng tuyển. Tôi về quê chuẩn bị thủ tục nhập học.

Lúc tôi về, mẹ là người hạnh phúc nhất. Gặp bà con lối xóm, ai cũng chia vui — phen này chắc nhà tôi ăn mừng lớn lắm. Nhưng thật lòng tôi chẳng có chút niềm tin vào những ngày sắp tới. Mười mấy năm đèn sách, tôi đã thấm mệt với chương trình giáo dục nặng nề, xa rời thực tế. Tôi tự cảm thấy rởm đời quá nên xin thôi, lặng lẽ quay trở lên Sài Gòn. Trong đầu, vẫn còn nhan nhản ý nghĩ về chuyện thi cử: đi thi kẻ đậu người rớt, không lẽ lúc đậu thì phải kèn trống rền vang, còn rớt thì giấu nhẹm không ai hay?

Tôi làm thủ tục nhập học vào một trường đại học có tiếng ở Phú Nhuận. Buổi đầu lạ lẫm, mọi thứ đều thay đổi, từ cách xưng hô ngôi thứ. Các anh chị khóa trước tổ chức buổi lễ chào đón tân sinh viên thật rình rang. Thiết nghĩ ai hòa mình vào đó ắt hẳn cũng ấm lòng. Riêng tôi cảm thấy lạc lõng giữa cái thế giới mênh mông mà nơi đó, mỗi cá thể là một người thợ xây dựng tương lai. Tôi choáng ngợp với những khẩu hiệu rỗng tuếch, thu mình quan sát và chiêm nghiệm.

Ngành học tôi chọn lúc đăng ký là kinh tế đối ngoại, khoa tiếng Nhật — với lý do đơn giản là học thêm một thứ tiếng. Thầy dạy tiếng Nhật người miền Bắc, còn khá trẻ. Tôi cũng hy vọng giáo viên trẻ sẽ dễ gần với sinh viên. Nhưng thực tế thật đáng buồn, chỉ sau buổi học đầu tiên, tôi lật đật nộp đơn xin chuyển sang khoa tiếng Anh, không phải vì môn tiếng Nhật khó nuốt — ngày đầu thì có học được cái gì? Chỉ vì tôi không thể nào cho phép mình ngô nghê như một chàng khờ, thụ động chờ người khác ban kiến thức, truyền đạt kinh nghiệm như thế.

Hết học kỳ một tôi đã không thể tiếp tục chống chọi. Lớp nhỏ thì đông nghẹt, giảng đường lớn cũng chật cứng hàng trăm sinh viên, ngồi khúm núm trong bầu không khí oi bức. Còn giảng viên thì tay cầm micro thao thao bất tuyệt như đang truyền đạo trên bục giảng, biến mất ngay sau tiếng chuông báo hết giờ. Người dạy nào phải cội nguồn tri thức, người học nào phải gà công nghiệp, sao việc ai người nấy làm? Đời sinh viên chỉ có vậy? Suốt ngần ấy năm miệt mài chỉ đổi được có bấy nhiêu?

Tôi mệt nhoài nằm dài trên giường cốt tìm ra một lối thoát. Bên ngoài, tiếng ồn ào đặc trưng của thành thị không lúc nào ngưng. Nhìn qua khung cửa sổ đứng rũ thèm một cơn gió, tôi mơ màng nghĩ về giấy báo nhập học trường hàng không. Nếu mình kiên trì nhẫn nại, sau này biết đâu có cơ hội đi đây đó trên những chuyến bay. Từ trên không trung nhìn xuống đất, vạn vật thu nhỏ, và mình cũng tan biến. Như vậy có lẽ thú vị hơn ngày ngày phải thắt cà vạt tới sở làm.

Sau chút giây phút lãng mạn, tôi tỉnh dậy và nhận ra mình chỉ thật sự yêu thích ngành học về máy tính. Thế là tôi quyết tâm theo đuổi tới cùng, giống như ngày xưa lựa chọn học ngoại ngữ, trước hết vì niềm đam mê. Tôi may mắn nhận được sự ủng hộ từ một người bạn đặc biệt, và được tài trợ trong suốt khóa học. Từ đó, tôi không còn chú ý gì khác ngoài việc trau dồi ở trường, đến nỗi dần mất hết những người bạn thân trước đây. Tôi cũng ít về thăm nhà, thăm quê hương có cây cầu khỉ.

Mỗi ngày chạy xe đến lớp, qua bao nhiêu con đường, gặp bao nhiêu người cũng không khỏa lấp được sự trống trải trong tâm hồn, mà chỉ làm tôi cố quên đi cuộc sống khô cằn. Thì ra mình cũng đang bon chen giữa thành phố chật chội này. Tôi trở nên vô cảm, thờ ơ mỗi khi ra đường. Mọi người cũng thế.

Cho đến một ngày, tôi quen được những người bạn mới. Tôi thay đổi, hòa hợp với những gì mình đang có. Hằng ngày, vẫn đi trên con đường ấy, nhưng tôi thấy có lá me bay, có tia nắng vàng lọt qua vòm lá. Nhớ đoạn đường về nhà thật gần, mà cứ chạy ngoằn nghoèo qua mấy con hẻm sâu. Nhớ quán cóc ven đường ngồi không biết chán, nhớ trung tâm mua sắm sang trọng đi lòng vòng chỉ để ngó. Và nhớ một người.

Sài Gòn của tôi là thế đó, gắn liền suốt cả quãng đường đời. Bây giờ ngồi nghĩ lại, bồi hồi những ngày vui, ngậm ngùi những ngày buồn. Từ bao giờ, Sài Gòn đã không còn thuộc về tôi nữa, chắc có lẽ là mãi mãi?

Đội trống tí hon

Những năm cấp II, kỷ niệm đáng nhớ nhất là lúc sinh hoạt trong đội trống nghi thức.

Đội trống năm thành viên ai nấy đều dễ thương, gồm một trống cái (nam) và bốn trống con (nữ). Các thành viên được chọn cùng một lớp để tiện sắp xếp thời khóa biểu, và được ưu tiên xếp lớp đầu (61, 71, 81, 91).

Tôi tham gia đội vào một dịp tình cờ. Ban đầu tôi không hay biết gì về việc thành lập đội, cũng chẳng có cuộc tuyển chọn nào. Buổi tập đầu tiên, thằng bạn thân rủ rê đạp xe vào sân vận động coi đội trống tập. Tôi cũng ham vui đi theo. Lúc đó, nghe có hoạt động văn nghệ là mê lắm. Đến nơi, hai đứa tôi bắt gặp cô tổng phụ trách và năm bạn chung lớp đang tụm năm tụm ba tại một góc khuất, dưới bóng mát lưa thưa của mấy cây bạch đằng.

Sân vận động chủ yếu dành cho toàn trường học thể dục, thỉnh thoảng mới thấy tổ chức hội thao. Buổi chiều nắng vẫn còn gắt do không có mái che, cũng không có cây to nào. Chỉ tội các bạn nữ dù kỹ lưỡng cũng không được đeo găng tay lúc tập. Nhớ mỗi giờ học, thầy bắt phải chạy khởi động trước khi vào bài. Bọn con trai toàn dân quê tay lấm chân bùn, đứa nào cũng khỏe mạnh như trâu; cả đám chạy hai vòng thật nhanh, cốt để tìm bóng mát trong lúc ngồi chờ bọn con gái rề rà cho xong một vòng sân…

Hôm đó, cô nói: trống cái giữ vai trò quan trọng nhất, là linh hồn của cả đội, mở đầu và giữ nhịp cho các trống con. Thằng bạn giữ trống cái đang tập trung, tiếp thu rất nhanh. Chỉ tiếc một điều nó không có khiếu về nhịp phách, đánh thử vài lần vẫn không xong. Cô nhìn sang và hỏi dò hai đứa tôi đánh thử cho cô nghe. Thằng kia thử trước, có khá hơn, nhưng cô cũng chưa hài lòng. Tới lượt tôi, tôi run lắm. Lứa tuổi thơ dại, ham học hỏi, ham làm thử, tôi cũng liều. Và chuyện gì đến cũng đến, cô mỉm cười gật đầu. Tôi cũng bất ngờ, thật tình không biết đã đánh như thế nào. Buổi tập đầu tiên kết thúc. Rồi những ngày tiếp theo, tôi đều làm tốt và càng hăng say hơn. Chưa bao giờ tôi cảm nhận âm nhạc lại dễ dàng như thế.

Đội trống chúng tôi được nhà trường khen ngợi, thậm chí xuất sắc hơn đội mấy anh chị lớp trước. Đội đảm nhận phần trống chào cho tất cả các dịp nghi lễ như chào cờ, khai giảng, bế giảng… Ngoài ra, nhiều cơ quan thị trấn cũng thường gởi lời mời đến nhà trường cử đội làm đại diện đánh trống mừng cho các kỳ hội nghị. Mỗi lần đi đánh trống, bọn tôi phải chuẩn bị bài vở trước, nhưng ai nấy đều tham gia tích cực. Hầu như chưa bao giờ vắng mặt thành viên nào. Nhớ những lần chờ đại biểu đọc diễn văn, bọn tôi cùng ngồi ôn bài. Đến khi bài phát biểu kết thúc, thấy khán phòng vỗ tay vang rền, tôi quên khuấy, cả bọn nhìn nhau cười.

Còn nhớ có lần tôi ngủ quên, bốn bạn nữ phải hối hả chạy tuốt ra nhà gọi, vì nhà tôi chưa có điện thoại. Thấy các bạn từ xa, mẹ thắc mắc, tôi hoảng hồn vội vàng đi thay đồ. Cũng may có mẹ tôi ngồi nói chuyện, hỏi han chốc lát, các bạn cũng quên trách cứ. Mà hồi đó, cô phụ trách cũng ưu ái lắm, chỉ nhắc nhở rút kinh nghiệm lần sau chứ không la rầy gì.

Tôi nhớ năm lớp 8, đội được mời xuống huyện đánh trống lễ tiễn binh. Lần đó được rước bằng xe jeep, oai lắm! Tôi ngồi trên xe, cứ mỉm cười mãn nguyện. Tới nơi, cả bọn choáng ngợp về mức độ hoành tráng của buổi lễ, đông nghẹt người. Cuối cùng, đội cũng hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, được tuyên dương.

Lần khác, đội đi đánh trống cho các em nhỏ đốt đèn rước ông Trăng. Đội dẫn đầu đoàn tí hon, bé nào cũng tay xách lồng đèn miệng bi bô hát mấy bài thiếu nhi. Tiếng trống rộn ràng cả thị trấn: tùng một-hai-ba-bốn-năm một-hai-một-một, tùng một-hai-ba-bốn-năm một-hai-một-hai…

Quà tặng

Mỗi khi lễ lộc, tiệc tùng, tôi lại có dịp tặng quà. Và chỉ cần một lời cảm ơn, một nụ cười cũng đủ là món quà ý nghĩa nhất mà tôi nhận lại được. Nhưng thật ra thì…

Tôi ghét tặng quà

Không phải vì tôi hẹp hòi. Cũng không phải tôi khô khan, không muốn tạo bất ngờ nho nhỏ cho những người xung quanh. Về tinh thần, một món quà dù nhỏ cũng mang lại niềm vui cho người nhận. Vì trước hết, quà tặng thể hiện sự quan tâm, lòng ngưỡng mộ, quý mến của người tặng. Đấy là chưa kể đến những nguyên tắc không thành văn trong quan hệ đối tác, hay khi nhờ vả người khác điều gì, quà tặng dường như không thể thiếu.

Với tôi, việc tặng quà nhiều lúc như sự thách thức. Đầu tiên là phải tìm hiểu sở thích, ý nguyện cũng như xu hướng từng thời điểm. Lắm lúc tốn khá nhiều thời gian và công sức để chọn được món quà ưng ý, có khi phải đặt hàng từ xa. Quà đắt tiền mà không hợp hoàn cảnh cũng mất đi ý nghĩa. Quà giá trị thấp đôi khi làm người khác đánh giá về mình, tạo ấn tượng không tốt cho lần gặp gỡ đầu tiên. Ít ai thừa nhận một điều — quá nửa những gì nhận được đều không thể sử dụng. Tôi biết nhiều người vẫn còn suy nghĩ “quà gì cũng không quan trọng, miễn sao gây được chú ý.” Quan điểm này thật lãng mạn, bởi dù có ngạc nhiên thích thú đến đâu, chỉ chừng năm phút là người ta có thể quên ngay, biết đâu vứt đi sau đó.

Tôi cũng không thích nhận quà

Khi nhận từ ai đó một món gì, dù nhỏ, tôi cũng tự an ủi rằng người ta còn quan tâm tới mình. Nhưng ngẫm lại, quà tặng tạo cho tôi cảm giác mang ơn. Biết mình có xứng đáng với nó, hay đó chỉ là một hình thức? Bạn bè chỉ cần thường xuyên thăm hỏi, trò chuyện đã là đáng quý. Tôi không có tâm lý chờ quà, vì không muốn bất cứ ai mất thời gian, công sức, tiền của cho mình.

Nếu bạn hỏi, món quà đặc biệt nhất mà tôi từng nhận được chính là chiếc máy nghe nhạc iPod nano từ một người bạn. Trước đây, tôi luôn mang theo bên mình và yêu quý hơn bất cứ món gì khác. Nó làm tôi thay đổi cách nhìn về sự đơn giản, tiện dụng và giá trị cần có cho một sản phẩm.

Lại một câu chuyện

Tôi có quen một cô bạn. Mùa Trung Thu này, cô và người bạn trai cùng đi chọn hộp bánh để anh tặng gia đình cô. Thật không còn gì bằng khi được người nhận mách nước chọn quà. Cô muốn bạn trai tặng hộp bánh mới nhất, ngon nhất cho bố mẹ kính yêu. Ban đầu, anh cũng đồng ý. Nhưng không may là hộp bánh cô yêu cầu lại hết hàng, phải chờ đợt hàng kế tiếp. Vài ngày sau, anh bạn trai bất ngờ mang tặng một hộp bánh khác. Thế là bạn tôi nổi giận, lời qua tiếng lại. Có thể với cô, món quà quan trọng hơn cách cho quà. Và đương nhiên quà năm sau phải hơn quà năm trước?!

Đánh giá

Ngô Bảo Châu

Lại nói về vị giáo sư đang gây làn sóng lớn trên các phương tiện truyền thông. Sau khi giáo sư được trao danh vọng, bên cạnh hào quang sớm thấy là hàng loạt phiền phức ngay trước mắt. Nhiều người tỏ lòng ngưỡng mộ giáo sư, đặt niềm tin và lấy làm tự hào. Giáo sư phát biểu: giải thưởng danh giá vừa đạt được không chỉ mang vẻ vang về cho quê hương Việt Nam, mà đó còn là vinh dự cho Pháp quốc, nơi anh đã có nhiều năm học tập và nghiên cứu. Báo chí đưa tin nhấn mạnh chữ “trao tặng quốc tịch” như hàm ý muốn giành lấy giáo sư cho riêng dân tộc mình. Thử hỏi nếu giáo sư không nhận thì việc trao tặng có hiện thực?

Không chỉ các tổ chức, cơ quan nhà nước loan tin nhiều đặc cách dành cho giáo sư, vài cá nhân cũng công khai hiến tặng những món quà to tát, khiến người ta phải trầm trồ và thật khó ngăn lòng đố kỵ. Trong đó phải kể đến “đảo chúa” đảo Tuần Châu. Ông mạnh miệng kính biếu giáo sư tòa biệt thự uy nghi sang trọng. Giáo sư tuổi trẻ tài cao tế nhị từ chối. Có người cho rằng đấy là vì lòng tự trọng. Cũng có kẻ hồ nghi với quyết định này. Liệu có phải anh ngại dư luận nên còn e dè? Hay anh miễn cưỡng khước từ? Chỉ mình anh biết.

Sự việc ồn ào đến nỗi nhà thơ, nhà báo quê hương là chùm khế ngọt phải đặt vấn đề. Nhà báo không cần câu nệ đả kích vị doanh nhân đảo chúa và nhiệt liệt tôn vinh lòng tự trọng của anh giáo sư. Nhà báo vạch trần sự lố bịch của hành động cho tặng — chẳng qua vì chút hư danh, và còn thách thức một ván cờ chính nghĩa. Vâng, công tác từ thiện được xem như cuộc hơn thua, đổi chác. Nhà báo ta đắc thắng vì cho rằng: trách nhiệm của kẻ giàu là phải chăm lo đời sống của vô số người nghèo khó trong xã hội. Đấy mới là thước đo phẩm giá, mà cái này thì Đào đảo chúa hơi thiếu. Có lẽ theo nhà báo, giàu sang có được là do tham nhũng, hối lộ, hay buôn lậu, tham ô? Còn hiệp nghĩa đích thực chính thuộc về mình!

Thiết nghĩ văn hóa cho nhận cũng đáng suy ngẫm. Khi bạn cho ai đó món quà có giá trị thấp, như bông hồng chẳng hạn, thì không mấy người bận tâm. Nhưng cho cả gia tài mới là điều đáng nói.

Có phải làm nhà thơ, nhà văn thì mặc nhiên đức cao vọng trọng? Làm nhà báo thì có quyền phê phán, đánh giá người khác? Và người giàu ắt hẳn bất nghĩa? Họa chăng, nhà thơ nhà báo kia cũng muốn bám theo chút tiếng vang, khi cùng góp tiếng nói trong phi vụ cho – nhận này?

Angelina Jolie và Brad Pitt

Cách đây không lâu, hai tài tử giai nhân nổi tiếng đầy quyền lực sang thăm Việt Nam. Kết quả chuyến đi: họ nhận nuôi một bé trai mồ côi. Nhiều người vui mừng cho bé từ nay đảm bảo một tương lai sáng lạn, và cảm phục tấm lòng nhân ái bao la của cha mẹ nuôi. Kỳ thực, vài người lại tiếc nuối. Tại sao Angelina và Brad chỉ cưu mang một thân phận? Vì danh tiếng chăng? Giá như, với cùng chi phí ấy, hai người nhận bảo trợ cho cả trại nuôi hàng trăm trẻ mồ côi khác, thì hay biết bao? Thế chẳng phải lòng nhân ái được tăng cấp số nhân? Hay tấm lòng vàng nào cũng cần có sự toan tính?

Tôi cho rằng không ai đủ cơ sở để đánh giá một người, nhất là khi không biết rõ về họ. Khi đánh giá một ai đó, bạn đã vô tình lấy thước đo của mình để áp đặt lên người khác. Những nguyên lý đạo đức đúng với người này không thể áp dụng cho người kia.

Đi chài

Nhớ hồi nhỏ, con nít xóm tôi rất mê chơi. Sau giờ học, bọn tôi thường tụm năm tụm ba tổ chức những trò tập thể như: năm mười đá banh, đụng bắt, đá bò, dính chùm, ăn trái cây, bắt mò, đánh bài… Bọn tôi chơi với nhau rất thân thiết, vui vẻ, hòa đồng. Cứ thế xây dựng tình bạn ngày càng khắng khít, sớm tối có nhau.

Những hôm chơi chán, bọn tôi thường kiếm gì đó làm. Lúc thì đi câu cá lòng tong, cá bóng dừa, khi thì đi đặt nhá, đặt lợp, bắt còng, mò hến. Đứa nào cũng giỏi, vừa học vừa làm. Đi một buổi có thể kiếm được một mớ cá tép đủ ăn cho cả ngày. Mấy đứa có anh chị em thì chia việc nhau làm — đứa này đi nhá thì đứa kia hái rau nấu cơm, hoặc luân phiên.

Nhà tôi chỉ có ba người. Ngay từ nhỏ tôi đã không phải làm lụng vất vả như những đứa khác trong xóm. Công việc chính của tôi là ăn, học và chơi. Ba mẹ cũng chưa bao giờ đặt vấn đề, hay yêu cầu tôi phải làm việc gì. Biết vậy nên tôi rất ham học, cố gắng đạt nhiều thành tích để ba mẹ vui lòng. Trừ những hôm mê chơi bỏ bữa, nhất là hơn năm sáu giờ chiều mà chưa về tắm rửa ăn cơm, mẹ tôi kêu réo inh ỏi khắp xóm. Về nhà chắc chắn sẽ bị mắng cho một chập. Thường những lúc đó tôi hay cười trừ, hoặc giả đò kiếm chuyện gì đó hỏi han là mẹ tôi quên ngay.

Tuy ít được cho đi đâu xa, nhưng thấy bọn bạn hằng ngày mang về cả rổ cá tép, tôi ham lắm. Lúc nào tôi cũng kiếm cớ đi theo chơi, rồi dần dà bắt chước. Tôi nổi tiếng nhất xóm đi học rất chăm ngoan, nhưng đi làm thì rất tệ. Việc gì cũng thua sút người ta. Cùng đi chung một đám, nhưng tôi thường quay về với rổ ít nhất, thật đáng xấu hổ. Mẹ tôi hay khuyên lơi: “Con không có tay sát cá.” Cũng có khi mẹ mắng: “Câu không có bao nhiêu, nắng nôi, mất công tao mần cá!” Mẹ nói vậy để tôi chán nản mà bỏ cuộc, chứ tôi biết mẹ vui lắm. Vì tôi học lớn từng ngày, bước đầu biết tự kiếm miếng ăn…

Trong số những việc vừa làm vừa chơi, tôi thích nhất là đi chài. Hồi đó đời sống còn khó khăn, nhà nào khá giả và tin tưởng lắm mới dám mua một miệng chài cho con đi phá làng phá xóm. Để dụ mẹ tôi mua, cũng không phải việc dễ dàng gì. Tôi thường xuyên rỉ tai to nhỏ, thể hiện bằng thành tích học tập ở trường.

Rồi cái ngày chờ đợi cũng đến, mẹ đồng ý mua cho tôi một cái miệng chài. Tối hôm đó tôi háo hức chưa từng có, cứ trằn trọc không ngủ được. Học xong buổi sáng, tôi chạy riết về nhà để mong được thấy cái miệng chài mơ ước. Cuộc đời từ đây sang trang, được mọi người công nhận sự trưởng thành của mình. Và hơn hết, bọn kia cũng không còn cớ để xem thường khả năng của tôi. Tôi không chỉ biết học và chơi đâu nhé, tôi còn biết kiếm tiền nữa.

Về đến nhà, tôi chạy ù ra sau chái. Mẹ tôi treo sẵn cái miệng chài mới choang, lưới vẫn còn trắng tinh. Tôi đưa tay vuốt từ trên xuống dưới nghe cồm cộm, xách lên cảm giác hơi nhẹ vì bấy giờ tôi đã cao to hơn mấy đứa trạc tuổi. Bữa đó tôi chỉ muốn đi chài liền, nhưng chưa được. Miệng chài mới mua về phải qua công đoạn ngâm vỏ sắn và bện thêm lưới cho mấy khoen chì thêm chắc chắn. Bọn kia biết tôi có miệng chài mới, lũ lượt kéo qua xem, hỏi han đủ điều: “Cái này mua bao nhiêu dạ dì Năm? Mắc chì chưa?” Mẹ tôi trả lời, “bốn lăm ngàn, năn nỉ lắm người ta mới bớt được năm ngàn.” Rồi bọn nó trầm trồ: “Đã quá ta! Sướng rồi hén!” “Chứ sao!” — tôi vênh váo. Một lúc sau, rôm rã đã đời, bọn nó dắt tôi đi tước vỏ sắn.

Vỏ sắn đem về ngâm nước độ chừng ba hôm. Nước sắn tiết ra đen thùi, hôi rình mùi mủ. Trong khi chờ đợi, mẹ tôi gởi miệng chài đi mắc lại chì. Cậu Tư mắc rất nhanh, một buổi là xong. Mang về nhà, tôi treo lơ lửng mà tiếc nuối. Tôi cũng không dám lấy xuống chài thử vì sợ lấm đất. Mấy hôm liền tôi cứ mong mỏi, đành lủi thủi theo tụi kia coi cách tụi nó quăng chài.

Năm ngày sau, mọi thứ đã sẵn sàng, tôi khởi nghiệp — đi chài. Thời điểm thích hợp nhất là lúc nước vừa mới lớn, cá tép từ sông bơi vào vũng ăn mồi. Để chuẩn bị: cám mua về rang cho thật thơm, đất sét vò thành những viên to tròn. Tất cả bỏ chung vô thau, xóc đều cho cám dính đầy. Sau đó có thể đi rải mồi. Mỗi ổ chài, rải ba viên, chừa lại một viên làm dấu và rải đợt hai. Rải khoảng mười hai mươi ổ, tôi quay về rửa thau, nằm chờ chừng nửa tiếng rồi xách xô đi chài.

Tôi chài một mình, quanh mấy vũng gần nhà, lâu lâu rủ cô bạn hàng xóm đi chung. Cách nhà không xa, có mấy bờ dừa ít người lui tới, nhìn hoang vắng âm u không ai dám đi một mình. Hai đứa tôi chài chung riết rồi quen, cứ sau giờ học là lật đật xách thau vò mồi.

Đi chài nhiều khi rất mệt nhưng vui. Mấy lúc vò mồi, hai đứa thi hát với nhau. Đến giờ tôi vẫn không quên giọng ca ngọt như trái lý ấy: “Nghe em hát câu dân ca sao mượt mà lòng anh thương quá…”

Có lần, thấy có buồng chuối già hương chín rộ, trái nào trái nấy to tròn nứt vỏ, thơm phưng phức, hai đứa khoái chí ngồi ăn ngon lành, bẽ thêm mấy nải về ăn tiếp.

Chài nước lớn chưa đã, hai đứa còn rủ nhau chài nước ròng, rồi chài nước cạn. Có ngày đi đến ba bốn bận. Thành ra nhiều khi hàng xóm phàn nàn, tụi mày chài miết không còn con tép nào dám béng mãn vô vũng. Mỗi lần như vậy, hai đứa bèn đổi địa bàn, đi càng xa hơn.

Lúc đầu đi chài về, mẹ tôi mần cá. Dần dần tôi tự mần lấy, rửa sạch để sẵn, mẹ chỉ nấu mà thôi. Bữa nào đồ ăn nhiều quá, tôi bưng đi bán, kiếm được dăm ba ngàn, tôi mừng lắm. Thế là từ đó có tiền mua báo Mực Tím về đọc. Mở đầu cho những câu chuyện khác.